“ĐẠO PHẬT KHÔNG CẦN ĐẾN NHỮNG ĐOÀN NGƯỜI THEO ĐẠO PHẬT…” *

Ông Minh Tuệ Tu Pháp Gì? Cùng Phân Tích Qua Các Bài Báo Thông Tin Tổng Hợp Dưới đây

Mọi tôn giáo lớn ra đời khi xã hội con người rơi vào những cảnh lầm than, thống khổ cùng cực. Và mỗi khi xã hội có nhiều biến động, nhiều nhiễu nhương, phiền não, con người sẽ mất hết niềm tin vào thực tại cuộc sống, khi đó lại là lúc họ tìm đến niềm tin tôn giáo.

Ngày nay ta dễ bắt gặp hình ảnh người người, đoàn đoàn kéo nhau đi lễ chùa cầu Phật hoặc tham dự các khoá tu.

Phải nhìn nhận khách quan rằng trong mấy chục năm trở lại đây, việc đi chùa trở nên đông đúc, ồ ạt hơn bao giờ hết. Trên bề nổi chúng ta thấy như có một xã hội an lành, hướng thiện, ai ai cũng phát tâm bồ đề. Nhưng nhìn sâu hơn, kĩ hơn ta thấy đó như một hiệu ứng lây lan trong tâm lí, cứ thế trở thành trào lưu và ngày một lớn mạnh. Mà cái gì đã gọi là “trào lưu” thì tất phải thoái trào, điều này cũng nằm trong quy luật thành – trụ – hoại – không của nhà Phật đã chỉ ra.

Chùa vốn là chốn tôn nghiêm, thanh tịnh; là nơi thờ Phật và tu tập của tăng ni. Vì lẽ đó chùa cũng trở thành điểm đến của những ai có đức tin, có lòng hướng Phật. Hay đến chùa để vãng cảnh để tìm chút bình an nơi tâm hồn là việc có ý nghĩa, nên làm. Khi ấy ngôi chùa, tôn tượng như tha lực đánh thức tâm từ, lòng bi mẫn ở mỗi cá nhân; xa hơn có thể khơi dậy được tự tánh, chân tâm thanh tĩnh.

Nhưng thật đáng buồn, người ta thường mê lạc vào tà kiến, đó là đến chùa lễ Phật để cầu phúc, cầu danh, cầu lợi; tệ hơn nữa là cúng sao giải hạn. Vô hình trung, người ta từ đi chùa trở thành đi xin, từ tạo phước hoá ra mất phước, từ vô tâm (1) trở nên vọng tâm… Nếu muốn có phước báu thì khi phát tâm phải là một cái tâm trắng bạch, vô sở cầu, vô sở trụ. Làm ngược lại, điều đó chẳng những không có lợi lạc gì mà còn rước thêm uế trược, phiền não.

Vậy nên, làm gì có chuyện tham ô rồi lấy tiền đó đi cúng chùa xây tượng lại được phước, được sống khoẻ và tiếp tục vơ vét; hay làm những việc bất thiện khác rồi đến xin Phật để lại được bao che cho những cái ác tiếp theo. Nếu có những kỳ tích như vậy, tôi tin chắc, đó là thứ tà ma ngoại đạo nào khác, chứ không thể là đạo Phật. Và như thế thì làm gì có luật nhân quả, tức đạo Phật đang tự phủ định chính mình.

Tuy nhiên, số người tỉnh thức là không nhiều. Vì lẽ, đại chúng trong nhiều năm đã bị mê hoặc bằng những luận điệu tà thuyết. Từ những quan niệm nhân quả, luân hồi, nghiệp báo mà Đức Phật thực chứng bằng thiên nhãn của Ngài; trong khi người trần mắt thịt không thấy, và ngay chính các ma tăng họ thừa biết họ cũng mù, nhưng họ xuyên tạc và rao giảng xằng bậy mà cứ như đúng rồi, để hù dọa, cốt thu cùng vét tận tiền bạc của bách tính. Nghĩ cho thấu đáo, chính những ma tăng là kẻ không tin vào nhân quả, luân hồi nhất. Chứ nếu tin thì chắc không dám lừa phỉnh trắng trợn như vậy. Thật là nghịch lý, khi kẻ không tin lại dạy cho người khác tin!

Bên cạnh đó, một nhóm người lắm tiền nhiều của, họ đã dựng lên những chùa cao tượng lớn để thu hút khách thập phương do nắm bắt được nhu cầu du lịch tâm linh và thực trạng mê lạc không lối thoát này.

Có thể nói, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam chưa có giai đoạn nào mà người ta đổ tiền vào xây chùa dựng tượng để chạy theo các kỉ lục – cao nhất, to nhất – như hôm nay. Cách làm đó hoàn toàn đi ngược lại với truyền thống kiến trúc chùa Việt. Tất cả điều này không phản ánh cho sự giàu có của một dân tộc hay sự kính ngưỡng dành cho một tôn giáo. Trái lại nó phản ánh sự xuống cấp, nghèo đi của xã hội và sự trống vắng, hụt hẫng trong thế giới tinh thần của con người.

Trong cái nhìn minh triết, Trưởng lão Hoà thượng Thích Minh Châu (1) đã nói: “Đạo Phật không cần đến những đoàn người theo đạo Phật, theo một cách ồ ạt mù quáng, theo một cách thụ động nhắm mắt, hay tự mình bóp méo xuyên tạc đạo Phật theo tà kiến dục vọng của mình”; mà “đạo Phật đòi hỏi sự nhận xét, tìm hiểu, suy tư cá nhân rất nhiều”. (2)

Đạo Phật chủ trương “duy tuệ thị nghiệp”, nghĩa là cái cốt lõi của nghiệp tu là hành giả phải khai tâm mở trí. Đó là con đường duy nhất để đi đúng chánh pháp, chỉ cần sai lạc một li tự khắc đã rơi vào tà đạo.

Cũng trên tinh thần ấy đạo Phật hướng người tu hãy tự đốt đuốc lên mà đi, tức đòi hỏi tính tự lực chứ không dựa vào tha lực. Tha lực nếu có chỉ là trợ duyên. Ngay cả kinh điển hay minh sư chỉ là phương tiện, không phải là mục đích. Người tu nếu chỉ bám chấp vào điều đó thì không khác nào chỉ nhìn thấy ngón tay chỉ mặt trăng mà không thấy được ánh sáng của mặt trăng.

Khi hành giả hiểu được những nguyên lý căn bản trong đạo Phật thì trước tiên phải biết giữ gìn giới luật vả có một đời sống phạm hạnh. Từ đây hỷ lạc sẽ an trú trong tâm để có thể hành thiền tiến nhập vào định. Và khi định ở tầng bậc cao nhất, tất sinh ra tuệ. Đó chính là cảnh giới cuối cùng để thấy được chân như tự tánh, đắc quả vị Phật.

Vì thế, tu Phật, cầu Phật không phải là đi tìm ông Phật ở bên ngoài mà chính là tìm ông Phật ở bên trong của mỗi chúng sinh.

Đúng như lời truyền tâm của Trần Nhân Tông trong bài kệ dành cho đệ tử Pháp Loa trước lúc Ngài viên tịch:

“Nhất thiết pháp bất sinh

Nhất thiết pháp bất diệt

Nhược năng như thị giải

Chư Phật thường hiện tiền

Hà khứ lai chi hữu”.

Hán văn :

一 切 法 不 生

一 切 法 不 滅

若 能 如 是 解

諸 佛 常 現 前

何 去 來 之 有。

Dịch thơ :

Tất cả pháp không sinh

Tất cả pháp không diệt

Nếu rõ được như vậy

Chư Phật luôn trước mặt

Nào đâu có đến đi.

(Nguyễn Thanh Huy dịch) (3)

Rõ ràng, theo kinh điển thời Mạt pháp đã bắt đầu khoảng 1500 năm sau ngày Thích Ca nhập diệt. Đến hôm nay giai đoạn suy vi này đã diễn ra khoảng 1000 năm. Với một thiên niên kỷ như vậy thì không có gì phải ngạc nhiên khi lúc này chúng ta chứng kiến nhiều câu chuyện kỳ quặc, nhiều những điều oái ăm.

Tiếc thay! Tiếc thay!

——

P/s: Bài viết nói chung, nhưng cũng một phần liên hệ đến tình hình đại chúng kéo theo Sư Minh Tuệ đông quá.

——

Chú thích:

(*) Tiêu đề này mượn lời của Hoà thượng Thích Minh Châu.

(1) Vô tâm: chỉ cái tâm rỗng lặng, an tịnh.

(2) Hoà thượng Thích Minh Châu – người có công lớn nhất trong việc dịch kinh tạng Pali sang tiếng Việt.

(3) Trong Lời Giới thiệu Kinh Trường bộ, tập III, 1972.

(4) Đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 25/01/2023

——

Nha Trang, 19/05/2024

Nguyễn Thanh Huy

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *